H&M và "bông Tân Cương": Người làm thời trang cần biết những gì?
Rõ ràng 2020 không phải là năm lý tưởng dành cho nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ngành công nghiệp thời trang khi hầu hết mọi hoạt động gần như bị dừng lại. Một loạt lệnh "đóng cửa" quốc gia được ban hành và những hạn chế đi lại vẫn chưa được dỡ bỏ. Điều này đồng nghĩa với việc ngành thời trang phải chịu một khoản lỗ khổng lồ khi lượng doanh thu nhận được từ việc mua sắm bị giảm xuống đến mức đáng báo động. Rõ ràng, việc một loạt tên tuổi nổi tiếng phải đóng cửa cửa hàng, tạm ngưng hoạt động hay thậm chí là đệ đơn phá sản đã đủ để nói lên những đòn nặng nề mà COVID-19 gây ra.
Tất nhiên, nạn nhân của đại dịch lần này không chỉ có thế. Nhóm công nhân làm việc trong ngành thời trang tại những quốc gia nghèo chính là người chịu tổn hại nặng nề nhất. Đại dịch lần này đã "vô tình" tiết lộ những ẩn khuất phía sau ngành công nghiệp trị giá 2,5 nghìn tỷ đô này với những bất cập đã bị bỏ quên – và ở đó, bất bình đẳng chính là vấn nạn nan giải nhất.
Việc H&M và một loạt thương hiệu thời trang lớn nhỏ khác cùng lúc đưa ra văn bản tuyên bố ngừng thu mua sản phẩm bông Tân Cương do những cáo buộc liên quan về vấn đề nhân quyền và cưỡng ép đối với người Duy Ngô Nhĩ một lần nữa khiến mọi người lo ngại về việc liệu bình đẳng có thật sự tồn tại trong ngành công nghiệp tỉ đô này. Sản lượng bông Tân Cương chiếm hơn 20% sản lượng toàn cầu, và tất nhiên, nếu không có những bằng chứng nhất định, H&M cùng các tên tuổi lớn khác như Nike, Adidas, Uniqlo, GAP, Kappa, Zara, Ralph Lauren, v.v. chắc chắn sẽ không vội vàng "từ bỏ" một trong những thị trường lớn nhất thế giới hiện nay.
Đã có những cáo buộc xoay quanh việc hơn nửa triệu người dân tộc thiểu số Duy Ngô Nhĩ bị cưỡng ép lao động tại những nông trại trồng bông cách xa hàng trăm km theo mô hình ba bậc: công ty trồng bông nộp cho chính quyền nhu cầu nhân công và trình độ tay nghề. Trải qua quy trình đào tạo hợp quy định, nhân công được giao từng lô cho chủ đồn điền và trong suốt thời gian thu hoạch hay vận chuyển, những người này luôn bị kiểm soát theo những gì đã đề ra trước đó. Từng có các tài liệu ghi rằng mức lương của người lao động tại đây có thể lên đến 5000NDT một tháng (tương đương $746), nhưng đã có những minh chứng chỉ ra rằng tính trung bình tiền lương tháng của một nhóm gồm 132 người là 1670NDT, tức $255/người. Và tất nhiên, theo những công ước quốc tế liên quan, ngay cả khi họ được trả những mức lương tử tế thì nếu không phải là công việc mà họ có quyền được tự do lựa chọn, đó vẫn là một hành vi cưỡng bức lao động.
Vài thập kỷ gần đây, các nước phương Tây đã dần chuyển dây chuyền sản xuất quần áo sang khu vực nam bán cầu, đặc biệt tại những nước châu Á và khu vực Trung Đông như Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, Uzbekistan, Việt Nam, v.v. Với trình độ tay nghề tương đối cao cùng giá nhân công thấp hơn so với nhân công tại các nước châu Âu. Rõ ràng việc các thương hiệu thời trang lớn thông qua những công ty môi giới để tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ tay nghề cao đã giúp họ tiết kiệm được một khoản lương cơ bản và những phúc lợi việc làm khác. Tất nhiên, sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp này cùng với nhu cầu mua sắm của khách hàng luôn thay đổi theo xu hướng đặt các thương hiệu bước vào những cuộc đua khốc liệt hơn trong việc đẩy mạnh sản xuất nhằm tăng doanh thu và có mức tăng trưởng lý tưởng. Điều này khiến nhiều người đặt ra những nghi ngại liên quan đến vấn nạn bóc lột lao động trong ngành này, khi mọi thứ vốn không được công khai minh bạch.
Các công ty chuyên cung cấp lao động đã vẽ ra những viễn cảnh tương lai tươi sáng với các chương trình hợp tác và giới thiệu việc làm để dụ dỗ trẻ em và những người muốn đổi đời tham gia. Theo một báo cáo mới đây của Global Labour Justice, người ta chứng minh rằng hầu hết các công nhân trong ngành này tại châu Á là nữ, cụ thể ở các nước như Bangladesh, Campuchia, Indonesia và Sri Lanka, lao động nữ chiếm từ 80 đến 95%, còn ở Ấn Độ từ 60 đến 75%. Người lao động khi làm việc tại những công xưởng mà nhà môi giới giới thiệu hầu như đều bị ép buộc gắn bó trong thời gian dài, không được thay đổi công việc và giấy tờ tùy thân cùng tiền lương bị giam lỏng trong khi họ phải làm việc với tần suất dày đặc tại môi trường làm việc xập xệ với các thiết bị, máy móc rẻ tiền, cũ kỹ với năng suất liên tục và không có bất kì thiết bị bảo hộ lao động nào. Thậm chí, có một nữ công nhân đã lên tiếng tố cáo bị quản đốc nam đánh vì không đạt chỉ tiêu sản xuất.
Có không ít các vụ tai nạn lao động thương tâm liên quan đến vấn đề môi trường làm việc thiếu an toàn và không đảm bảo chất lượng đã xảy ra như bị sập, hỏa hoạn với các con số thương vong được báo cáo và ghi nhận, ví dụ như vụ sập xưởng may tại Dhaka, Bangladesh khiến 70 người chết vào năm 2005, hay sự việc 111 người tử vong vì cháy xưởng may của Walmart và GAP vào năm 2021, nhưng quả thật, vấn đề này vẫn chưa được thế giới nhìn nhận và quan tâm một cách đúng mực. Các nhà máy vẫn được xây dựng với những tiêu chuẩn về an toàn lao động không được đảm bảo, điều kiện làm việc không an toàn và tính mạng của những người công nhân tại đây bị coi rẻ và chẳng ai mảy may đoái hoài. Tất cả những vấn đề này đều đứng phía sau hai chữ lợi nhuận.
Rõ ràng đại dịch lần này đã phần nào vạch trần những góc khuất phía sau ngành công nghiệp tỷ đô. Không chỉ có môi trường làm việc không an toàn, họ - những người đóng góp lớn nhất vào mức doanh thu lý tưởng mỗi năm – còn chịu những sự bất công về lương bổng và chính sách do chính những công ty và doanh nghiệp đề ra. Kalpona Akter, Giám đốc điều hành Trung tâm Đoàn kết Công nhân Bangladesh chỉ ra rằng COVID-19 lần này thật ra là lần xé toang bức màn giả dối đằng sau những lời hứa có cánh của các doanh nghiệp và thương hiệu với một sự thật cay đắng: người lao động mang đến lợi nhuận cho họ trong nhiều năm, nhưng khi đại dịch bùng nổ, chính họ đã bỏ mặc những người công nhân ấy chết đói!
Khi tiến hành cuộc nghiên cứu với sự tham gia của 400 công nhân tại 9 quốc gia khác nhau, Hiệp hội Quyền của Người lao động nhận thấy rằng những công nhân kiên quyết bám trụ với công việc hiện tại là những người phải chịu cảnh thu nhập giảm một cách đáng kể (21%) với mức lương tháng giảm từ $187 xuống còn $147. Không may mắn như vậy, hàng triệu công nhân tại khu vực châu Á đã mất việc làm và con số này được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong bối cảnh hiện tại. Rõ ràng, việc không minh bạch trong mức lương cùng những lần tuyên bố ngừng hoạt động không báo trước (điều xảy ra thường xuyên trong giai đoạn dịch bệnh hiện tại) của các doanh nghiệp hoặc nếu duy trì cũng đối mặt với vấn đề lương bị cắt giảm đã chỉ ra hình thái đối lập đến mức vô lý của ngành này: làm việc liên tục trong môi trường không đảm bảo và tiềm ẩn các nguy cơ về bệnh tật, tai nạn cao >< nhận lương thấp, thậm chí có nguy cơ chết đói!
Vấn nạn bóc lột lao động trong ngành công nghiệp thời trang rõ ràng không mới. Nó đã tồn tại âm ỉ trong suốt thời gian vừa qua và việc H&M cùng một loạt những thương hiệu thời trang lớn nhỏ khác trên thế giới ngừng sử dụng sợi bông Tân Cương một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về vấn nạn này. Và tất nhiên, những vấn đề này có thể sẽ chấm dứt nếu chúng ta dành cho họ - những nạn nhân của ngành này – sự quan tâm và đồng cảm nhiều hơn.
Bảo Ngọc