Muôn vị nhân gian: Muôn vàn thi vị
“Muôn vị nhân gian” chắc chắn không phải là một bộ phim dễ xem, hợp với số đông, thế nhưng với ai yêu cái đẹp, sự dịu dàng và cách thức truyền tải ý nhị, thì đây là một tác phẩm không thể bỏ qua.
Vài tháng trước đây, khi “Muôn vị nhân gian” được chọn làm đại diện của Pháp gửi tham gia Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Oscar 2024, thì giới điện ảnh quốc tế đã khá xôn xao, khi trước đó bộ phim cầm chắc suất này phải là “Kỳ án trên đồi tuyết” đoạt Cành cọ vàng của Justine Triet. Nhiều người bảo Triet bị loại bỏ bởi các phát ngôn chính trị, thế nhưng khi xem bộ phim mới nhất của Trần Anh Hùng, người ta mới hiểu tại sao mà những người Pháp gửi đi phim này.
Có lẽ hơi phiến diện khi xác nhận điều đó (và cả bỏ qua những hoài nghi về con người cá nhân của Justine Triet), thế nhưng khi đặt trên bàn cân lớn, thì rõ ràng ở “Muôn vị nhân gian”, tính “Pháp” đã vượt xa hơn “Kỳ án trên đồi tuyết”. Tuy cả 2 phim đều có yếu tố “ngoại đạo”, chẳng hạn Trần Anh Hùng là người gốc Việt hay Sandra Hüller là người gốc Đức, thế nhưng khi xem không thể phủ nhận đó là một lựa chọn đúng, khi tinh thần và văn hóa Pháp xuất hiện khắp nơi. “Muôn vị nhân gian” chắc chắn không phải là một bộ phim dễ xem, hợp với số đông, thế nhưng với ai yêu ai cái đẹp, sự dịu dàng và cách thức truyền tải ý nhị, thì đây là một tác phẩm không thể bỏ qua.
Tác phẩm xoay quanh câu chuyện giữa nữ đầu bếp Eugénie (do Juliette Binoche đóng chính) và “Napoleon của ẩm thực” Dodin (Benoît Magimel thủ vai), khi họ đã ở cùng nhau đến 20 năm nhưng mối quan hệ giữa 2 người họ rất khó xác định. Khi sức khỏe Eugénie ngày càng yếu dần, Dodin mới hiểu ra tình cảm ấy, từ đó “cầu hôn” người phụ nữ này bằng những món ăn do mình làm ra. Với một cốt truyện quá bề đơn giản và hầu như không có cao trào, dễ hiểu vì sao nó không chiến thắng Cành cọ vàng hay lọt vào đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất ở Oscar; nhưng cũng đồng thời là ở câu hỏi đâu là lý do ông lại chiến thắng Đạo diễn xuất sắc nhất tại LHP Cannes 2023.
Với một cốt truyện gần như nhợt nhạt, Trần Anh Hùng hướng tác phẩm này theo hướng nghệ thuật, bỏ qua nhân sinh. Ở đó vai trò của con người hoàn toàn bị triệt tiêu, mà chính vẻ đẹp điện ảnh được tôn vinh một cách rõ ràng. Nhiều người cho rằng đây là tác phẩm nói về nghệ thuật ẩm thực, nhưng với người viết, đây là tác phẩm tôn vinh điện ảnh, không phải trực tiếp như “The Fablemans” của Steven Spielberg, mà là gián tiếp qua những khoảng trống được lấp đầy bởi nhiều yếu tố khác, từ ánh sáng, thiết kế bối cảnh, quay phim, trang phục cho đến âm thanh. Có thể nói Trần Anh Hùng đã lột bỏ những yếu tố mang tính thông điệp, mà trình hiện ra một tác phẩm tri ân nghệ thuật điện ảnh đúng nghĩa bởi vẻ đẹp và sự duy mĩ của nó.
Điều đó có thể nhìn thấy ở cú máy longshot dài gần 40 phút ở đầu bộ phim, khi 2 đầu bếp cùng Violette và Pauline chuẩn bị bữa tiệc cho bạn bè Dodin. Ta thấy ở đây không phải những pha zoom cận hay beauty shoot kiểu phơi bày vẻ đẹp của ẩm thực, mà hơn hết là sự chuyển động hài hòa của các nhân vật. Những tiến triển ấy có chút nào đó hơi hướng kịch nghệ, khi trong một không gian bó hẹp và những hành động cũng bị giới hạn, thế nhưng góc quay, cách quay và phương thức các nhân vật tương tác với nhau đã đưa người xem vào trạng thái dòng chảy, kiểu bị cuốn hút bởi sự nhịp nhàng và không có lăn tăn nào trong việc đang diễn hay các chuyển động của bản thân họ.
Cái đẹp rồi cũng xuất hiện ở phần thiết kế bối cảnh, khi dù ở nơi nhà bếp với những thiết bị nấu ăn thoạt nhìn trông rất thô kệch, cũ kỹ; hay ở phòng ăn với những tấm gương, ngọn nến, pha lê trang hoàng hệt như cung điện Versailles... thì tất cả đều rất hòa hợp khi có sự xuất hiện của con người. Ở đây tất cả hậu cảnh trông đều đẹp tuyệt, và khi con người xuất hiện, họ chỉ làm nền cho bức tranh ấy, khiến cho chính nó đỡ phần trống trải. Như vậy cái đẹp của Trần Anh Hùng đến từ các sắp đặt thị giác dù là nhỏ nhất. Nó không bị chi phối bởi tính chủ động trong hoạt động của con người, hay các cú máy đặc tả từng góc riêng ấy.
Trong dòng lịch sử, hẳn ai cũng biết Napoleon chưa từng sống ở Versailles vì sự hoành tráng cần phải cải tạo. Vậy với danh xưng “Napoleon của ẩm thực”, chẳng phải Trần Anh Hùng đã xoay vần ngược lịch sử để cho Dodin được ở chính cái cung điện mà chức danh này một lần thuộc về? Cả 2 lần khi Dodin phục vụ những người bạn của mình, và khi Eugénie trở thành thực khách, thì phong cảnh xa hoa với kiểu cách Rococo ấy đã làm nên những cảnh phim choáng ngợp, giá trị và không thể quên. Cái tương phản ấy cũng được thể hiện chính ở kiến trúc, từ nhà bếp với những viên đá khổ lớn đậm tính Trung Cổ của những lâu đài, với những vòm cửa cong kiểu Moorish và cầu thang đá phân chia khu nhà... Dù ở đâu và nhỏ nhất, từng khung ảnh của Trần Anh Hùng cho ta cảm giác không có gì vội vàng, không có gì dư thừa, mọi thứ như ở chỗ nó, và phát huy hết tác dụng.
Tuy khá phiến diện nhưng có thể nói sự góp mặt của 2 minh tinh Benoît Magimel và Juliette Binoche trong bộ phim này tương đối thừa. Nói thừa không phải vì họ không hay hoặc không ăn ý, mà thừa vì Trần Anh Hùng đã triệt tiêu đi vai trò cầm trịch họ, khi vẻ đẹp như đã nói trên, không đến từ con người, mà là chuyển động. Sau chuyển động, là bối cảnh. Sau bối cảnh, là ánh sáng. Ánh sáng trong bộ phim này đóng vai trò quan trọng như người diễn viên, khi nó góp phần làm tăng tương phản và tạo ra được những ngụ ý riêng trong nội dung câu chuyện. Đáng tiếc là ánh sáng này tương đối giới hạn vào những cảnh đêm ở không gian khu ăn Versailles hay ra ngoài trời, vì Trần Anh Hùng cũng là con người, ông không thể nào kiềm giữ thiên nhiên.
Nhưng những cảnh quay khu bếp với cửa sổ và cửa cánh mở cho ánh sáng tràn vào là một ngôn ngữ không thể nào quên. Ở giữa bộ phim, khi Trần Anh Hùng quay ngược sáng Dodin và Violette khi chuẩn bị bữa ăn cho Eugénie, ta thấy những đám khói nhỏ bốc lên từ các món ăn như một ngầm ý cho hơi thở lúc này đang hóa thinh không của người phụ nữ. Để rồi sau đó khi Eugénie qua đời, lúc một người bạn mang đến những gia cầm chết, thì ánh sáng đổ từ duy nhất một cánh cửa cao, cắt xiên xuống bàn rọi vào những con gia cầm lại là một thứ “nghi lễ” mang tính biểu tượng và là lời chứng cho cái chết ấy. Những góc độ ánh sáng, cách phân bố nguồn sáng cùng vẻ đẹp tương phản chia đôi khung hình hay quay ngược sáng... tất cả cho thấy được sự duy mỹ trong từng khung hình, mà ở đó, Trần Anh Hùng đã làm nổi bật chính những yếu thường bị chi phối này, mang đến vẻ đẹp điện ảnh vô cùng khác biệt.
Cuối cùng cái đẹp cũng đến từ những bàn ăn, không chỉ trong chuyển động nhịp nhàng khi nấu, mà cũng đồng thời là việc thưởng thức. Ở đó ta thấy ẩm thực đồng thời nói được song song nhiều thế, từ càng tinh hoa là càng đơn giản cho đến tinh tế không hề đồng nghĩa với những thứ xa hoa. Khung cảnh giữa phim khi Trần Anh Hùng ví thân thể Eugénie như một quả lê tẩm đường và nhập cả 2 tuyến truyện về nhục dục và ẩm thực lại làm một, thì ta đã hiểu chính những cảnh phim đã làm no mắt người xem và truyền tải được thông điệp sau cùng. Trần Anh Hùng đã đúng khi không đi xa hơn, rõ hơn và chi tiết hơn, bởi chỉ khi bước qua cái vệt đường ấy, tác phẩm của ông chắc chắn rồi sẽ gây ngấy với một bữa tiệc quá nhiều lạc thú cũng như hoa trái cho niềm đắm say.
Nhìn chung “Muôn vị nhân gian” là một tác phẩm cho thấy hết được tài năng của vị đạo diễn, trong cách kể chuyện cũng như cách thức bắt thứ vô ngôn cũng phải cất lời. Đây là tác phẩm không có cao trào, không hề giật gân, thế nhưng nó lại cho thấy hết được vẻ đẹp của điện ảnh và những thành phần cấu tạo nên mình. Một bộ phim hay dành cho những ai theo đuổi sự duy mỹ suốt cuộc đời mình, và chỉ duy nó mà thôi.