Pop, Music & Film

Lương Triều Vỹ: Từ Hồng Kông Art-Cinema đến Hollywood

Nam diễn viên nổi tiếng nhất điện ảnh Hồng Kông, một trong 25 diễn viên Châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại, anh chàng nhà thơ kiệm lời trong bộ phim Xích Lô của Trần Anh Hùng, và giờ là thành viên của vũ trụ Marvel. Tất cả những danh xưng ấy, đều thuộc về Lương Triều Vỹ.
person human finger smoke smoking

“Diễn xuất là cách tôi thể hiện cảm xúc”

Lương Triều Vỹ có thể là cái tên danh tiếng bậc nhất điện ảnh Châu Á trong gần 30 năm, với sự nghiệp diễn xuất đồ sộ, nhưng có lẽ hình ảnh đậm nét nhất về anh trong lòng khán giả là một khuôn mặt điển trai thoáng u sầu và ánh mắt “biết nói” trong những vai diễn đã làm nên tên tuổi nam diễn viên này. Sau những năm tháng tuổi thơ khó khăn: bố đẻ bỏ rơi, lớn lên cùng một bà mẹ đơn thân, và bỏ học năm 15 tuổi, bươn chải từ việc bán hàng trong trung tâm thương mại ở tuổi 16… Lương Triều Vỹ chọn diễn xuất như một lẽ tự nhiên để có thể tự do thể hiện những cảm xúc dồn nén. “Tôi từng là một người rất lặng lẽ, và rồi khi đến với những bộ phim truyền hình và tất cả những cảm xúc đó lần lượt xuất hiện; tôi khóc mà chẳng thấy xấu hổ vì điều đó. Khán giả thì nghĩ đó chỉ là cảm xúc của vai diễn, nhưng trên thực tế, đó là những cảm xúc của chính tôi.”

1329526266_5c639c4a37_z.jpg

Sau hàng loạt dự án truyền hình cho đài TVB trong vòng 8 năm, bao gồm cả những bộ phim dài tập nổi tiếng lúc bấy giờ như Police Cadet (1984), The Yang’s Saga (1985), Ode to Gallentry (1989)… Lương Triều Vỹ có quyết định sáng suốt khi rời bỏ TVB để tập trung vào sự nghiệp điện ảnh của mình, khởi đầu bằng một vai diễn nhiếp ảnh gia bị câm điếc trong bộ phim City of Sadness của đạo diễn nổi tiếng người Đài Loan Hầu Hiếu Hiền. Bộ phim điện ảnh đầu tay của Lương Triều Vỹ đã đủ để mang tên tuổi anh đến với giới phê bình nước ngoài, sau khi City of Sadness trở thành bộ phim Đài Loan đầu tiên giành giải Sư tử Vàng tại Liên hoan phim Venice và đến giờ vẫn là một trong những bộ phim Đài Loan quan trọng nhất. Bất chấp những thành công quốc tế của A City of Sadness, nhiều nhà phê bình điện ảnh quả quyết vai diễn cảnh sát của anh trong phim Hard Boiled (1992) của đạo diễn Ngô Vũ Sâm, đóng cùng Châu Nhuận Phát, chính là vai diễn đặt nền móng cho tên tuổi nam diễn viên này trong lịch sử điện ảnh Hồng Kông.

“Tôi từng là một người rất lặng lẽ, và rồi khi đến với những bộ phim truyền hình và tất cả những cảm xúc đó lần lượt xuất hiện; tôi khóc mà chẳng thấy xấu hổ vì điều đó."
“Tôi từng là một người rất lặng lẽ, và rồi khi đến với những bộ phim truyền hình và tất cả những cảm xúc đó lần lượt xuất hiện; tôi khóc mà chẳng thấy xấu hổ vì điều đó."

“Vương Gia Vệ khiến tôi phải diễn xuất bằng bản năng”

Thập niên 1990 chứng kiến tất cả những vàng son của điện ảnh Hồng Kông, làn sóng phim nghệ thuật giai đoạn này ở xứ Hương Cảng thu hút những đạo diễn và diễn viên tài năng nhất điện ảnh Châu Á lúc bấy giờ, trong đó chắc chắn không thể thiếu Lương Triều Vỹ. Ở một nền điện ảnh đóng khuôn trong những cảnh phim võ thuật, những vai diễn nam tính mạnh mẽ theo motif anh hùng trượng võ và khả năng diễn xuất của diễn viên vẫn còn là câu hỏi để ngỏ, ánh mắt biết nói và khả năng diễn xuất nội tâm phức tạp của Lương Triều Vỹ là yếu tố cần và đủ để góp phần phá bỏ một khuôn mẫu của điện ảnh Hương Cảng. Thật may vì Vương Gia Vệ đã nhận ra điều này, và bởi thế, mới có một cặp bài trùng đạo diễn - diễn viên “kiệt xuất” như những gì giới phê bình khen ngợi khi các sản phẩm hợp tác giữa Lương Triều Vỹ và Vương Gia Vệ lần lượt ra đời. Khi New York Times, Times, GQ, Esquire… lên danh sách những bộ phim hay nhất trong sự nghiệp điện ảnh của Lương Triều Vỹ, hầu hết những cái tên trong đó là phim của Vương Gia Vệ.

ec86bdf8761417bd81940f4d6a0a3a12.jpg
Vương Gia Vệ, Lương Triều Vỹ và Vương Phi trên phim trường Chungking Express

Một chàng cảnh sát si tình trong Chungking Express (1994), một chàng trai trẻ đắm chìm trong mối tình đồng tính ở Argentina trong Happy Together (1997- đóng cặp cùng Trương Quốc Vinh), một người đàn ông sống trong những khao khát dữ dội của một mối tình câm In the Mood for Love (2000 – đóng cùng Trương Mạn Ngọc), và một nhà văn đào hoa trong 2046 (2004). Vương Gia Vệ khoác lên Lương Triều Vỹ những bộ trang phục khác nhau, những nghề nghiệp khác nhau, thậm chí những kiểu tình yêu khác nhau, trong một bối cảnh đô thị hiện đại và cô đơn mà theo Lương Triều Vỹ, đây cũng tựa bài toán anh buộc phải giải đáp.

Trong thế giới điện ảnh của Vương Gia Vệ, không có gì hoàn hảo: thành phố hỗn loạn, những tình nhân làm tình trong căn phòng tan hoang, những mối tình trầm, tình câm, bế tắc, tàn phá, những nhân vật khao khát yêu thương và cô độc cũng vì khao khát ấy. Và xem ra, cái thế giới này là đại dương để Lương Triều Vỹ thỏa sức vẫy vùng. 

“Cách Vương Gia Vệ làm phim rất có ích với tôi, vì chúng tôi không thể chuẩn bị gì, cũng chẳng có kịch bản ngoại trừ chút bật mí về nhân vật của mình. Vì thế tôi có thể làm bất cứ điều gì… Vì thế tôi phải dùng bản năng và trái tim để cảm nhận môi trường khi diễn xuất…”

Ep7iad9UUAEkkq6.jpg

Bản năng, tài năng và một chút liều lĩnh là công thức mang đến những tác phẩm điện ảnh để đời của nam tài tử này. Người đồng tính vẫn là nạn nhân của những kì thị trong xã hội Hồng Kông cho đến những năm 1990, và vì vậy không có mấy diễn viên “dám” nhận những vai diễn đồng tính, Lương Triều Vỹ và nam diễn viên Trương Quốc Vinh (người công khai đồng tính vào cùng năm bộ phim ra mắt) là hai cái tên hiếm hoi cùng với Happy Together

happy-together.jpg
(Happy Together, 1997)

In the Mood for Love lại là một câu chuyện khác. Một trong những bộ phim hay nhất mọi thời đại. Dự án chính thức ghi dấu tên tuổi của hai diễn viên chính Lương Triều Vỹ, Trương Mạn Ngọc và đạo diễn Vương Gia Vệ lên nấc thang mới trong nền điện ảnh thế giới. Tất cả những gì Lương Triều Vỹ mong muốn khi lựa chọn dự án này đều để lại quả ngọt, “Tôi muốn diễn xuất tối giản nhất có thể, không có biểu cảm khuôn mặt, không có nhiều lời thoại. Ban đầu việc này không hề dễ dàng, thậm chí khá đau đớn khi tôi không thể thể hiện cảm xúc, phải giấu kín nó…”

Movie-still-Maggie-Cheung-Tony-Leung-Fayeung-ninwa-In-the-Mood-For-Love-2000.jpg
(In the Mood for Love, 2000)

In The Mood For Love kể về câu chuyện tình yêu hầu như không lời giữa hai người hàng xóm, cả hai đều đã có gia đình. Tình yêu trong cuốn phim là tất cả những gì ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể có thể diễn tả, thậm chí cũng chẳng có những xung đột dữ dội, những thắt mở bi kịch. Nhưng hơn 20 năm sau ngày bộ phim ra mắt, hình ảnh một Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc bước men theo những bậc thang hẹp giữa lòng đô thị sôi động Hồng Kông vào năm 1962 trên nền bản nhạc không lời đầy ám ảnh của Shigeru Umebayashi vẫn khiến người xem thổn thức. Kìm nén đến cùng tận của cảm xúc không chỉ là tâm trạng khi yêu, mà còn là một khẳng định tài năng diễn xuất nội tâm tuyệt vời của người đàn ông điển trai luôn có vẻ lãng đãng buồn này. Cũng nhờ vai diễn, Lương Triều Vỹ trở thành diễn viên Hồng Kông đầu tiên đoạt giải Nam diễn viên xuất sắc nhất Liên hoan phim Cannes.

Đóng cặp với Trương Mạn Ngọc trong nhiều dự án phim, Lương Triều Vỹ thậm chí từng chia sẻ Trương Mạn Ngọc dường như chính là “nhân cách thứ hai” của mình, một bạn diễn tuyệt vời, một người anh có thể “cùng nhảy những điệu waltz” trên phim trường.
Đóng cặp với Trương Mạn Ngọc trong nhiều dự án phim, Lương Triều Vỹ thậm chí từng chia sẻ Trương Mạn Ngọc dường như chính là “nhân cách thứ hai” của mình, một bạn diễn tuyệt vời, một người anh có thể “cùng nhảy những điệu waltz” trên phim trường.

Những diễn viên nhạy cảm như họ, chọn cách không dành nhiều thời gian cùng nhau để “giữ lại một chút bí ẩn”, không khó hiểu khi những cảnh slow-motion ngập trong sắc đỏ trong In the Mood for Love vẫn còn được khán giả khắp thế giới tán tụng và xem đi xem lại như một “thánh ca về tình yêu” của điện ảnh.

angkor-man-lim-chung-001_02815e532415cc5f9e7ef872237df62e.jpg
D5AmkiqXoAAmjny.jpg
E46DtnGXMAAKUhj.jpg
E46Ds34WEAI76Qm.jpg

“Tôi chưa tìm thấy lý do đến Hollywood của mình”

Đó là vào năm 2001. Và đúng là trong suốt 2 thập kỷ, Lương Triều Vỹ vẫn chẳng cần vội vàng tìm đường đến Hollywood hay chịu đi theo luật bất thành văn của bất cứ diễn viên Châu Á nào muốn dạm ngõ kinh đô điện ảnh thế giới. Ở thời điểm đó, diễn viên Châu Á không có mấy lựa chọn vai diễn: họ hoặc là những anh hùng kung-fu, hoặc là người nhập cư. “Tôi có nhiều không gian ở Châu Á và tôi hiểu rõ nền văn hóa của mình. Tôi biết nhiều diễn viên có những lý do để đến Hollywood, nhưng tôi thì chưa.”

Lương Triều Vỹ đã tận dụng tối đa “không gian” của mình ở mảnh đất điện ảnh Châu Á - một nền điện ảnh ngày càng khởi sắc. Khán giả thấy một Lương Triều Vỹ còn biến hóa hơn cả những gì người ta có thể hình dung. Năm 1995, đạo diễn nổi tiếng Việt Nam Trần Anh Hùng thuyết phục được Lương Triều Vỹ tham gia vào dự án không nói tiếng Trung đầu tiên – Cyclo, có bối cảnh ở Sài Gòn và Hồng Kông, đóng cùng Trần Nữ Yên Khê và Lê Văn Lộc. Đạo diễn người Pháp gốc Việt có đủ mọi lý do để tìm đến Lương Triều Vỹ cho vai diễn tên cướp đầu sò vừa mê mẩn làm thơ đầy thú vị và xung đột như vậy. Và quả thực, bộ phim trở thành cột mốc quan trọng trong sự nghiệp Trần Anh Hùng khi thắng giải Sư tử Vàng tại Liên hoan Phim Venice năm 1995.

cyclo.jpg
(Lương Triều Vỹ và Trần Nữ Yên Khê trong Cyclo)

Quay trở về điện ảnh đại lục, Lương Triều Vỹ tiếp tục đẩy dư luận trong các diễn đàn phim ảnh lên cao trào. Một kẻ si tình dịu dàng như thế trong những cuốn phim của Vương Gia Vệ lại có thể trở thành một gã phản quốc tàn bạo trong Lust, Caution -"Sắc, Giới" (2007) của Lý An? Vai diễn đã phá bỏ mọi giáo điều về phong cách diễn xuất của nam diễn viên, không chỉ bởi những cảnh nóng táo bạo cùng nữ diễn viên chính Thang Duy, mà còn bởi cái cách Lương Triều Vỹ thuyết phục người xem anh có thể “ác” và cùng lúc đó, vẫn có thể yêu. Diễn biến cảm xúc phức tạp của những nhân vật trong Lust, Caution mang đến thành công vang dội về mặt nghệ nghệ thuật: 7 giải Kim Mã (bao gồm giải nam chính xuất sắc nhất), đề cử giải Quả cầu Vàng, đoạt giải Sư tử Vàng ở liên hoan phim Venice lần thứ 64, chẳng ngạc nhiên khi Lương Triều Vỹ một lần nữa giành giải Nam diễn viên xuất sắc nhất ở giải thưởng điện ảnh Châu Á.

Lust-Caution-Still-3.jpeg
(Lust, Caution, 2006)

Những năm tiếp theo chứng kiến một Lương Triều Vỹ “năng động” theo đúng nghĩa đen với hàng loạt dự án đa dạng thể loại: hài hước cũng có mà giật gân tội phạm hay võ thuật cũng có. Từ Red Cliff - "Đại chiến Xích Bích" của đạo diễn Ngô Vũ Sâm đến The Grandmaster - "Diệp Vấn" của Vương Gia Vệ, có vẻ tham vọng tham gia đóng những vai diễn võ thuật từ một tuổi thơ mê đọc truyện tranh kung-fu của Lương Triều Vỹ đã trở thành hiện thực. Và giấc mơ ấy, thì cũng chẳng khác biệt mấy so với giấc mơ của những đứa trẻ phương Tây mê truyện tranh Marvel. Nếu 20 năm trước Lương Triều Vỹ chưa tìm thấy lý do đến với Hollywood, thì Marvel có thể tự hào khi thuyết phục một trong những diễn viên vĩ đại nhất của Châu Á tham gia vào dự án phim anh hùng mới nhất Shang-Chi and The Legend of The Ten Rings - “Shang- Chi và huyền thoại Thập Luân” của đạo diễn Destin Daniel Cretton.

https___hypebeast.com_image_2021_09_shang-chi-and-the-legend-of-the-ten-rings-simu-liu-tony-leung-comments-000.jpg
(Shang-Chi and The Legend of The Ten Ring, 2021)

Vài phác thảo sơ qua: một bộ phim Marvel trung thành với motif anh hùng với 80% dàn diễn viên Châu Á, với bối cảnh Châu Á, một Dương Tử Quỳnh vốn đã quen mặt với Hollywood, những diễn viên người Mỹ gốc Á như Awkwafina và Simu Liu. Cuối cùng, là sự xuất hiện của Lương Triều Vỹ với vai diễn Từ Văn Vũ, thủ lĩnh của tổ chức Thập Luân và cha đẻ của nam chính. Doanh thu hơn 80 triệu USD mở màn ở phòng vé Bắc Mỹ chắc chắn là bước đầu ghi nhận thành công trong vai diễn mở hàng của nam tài tử ở Hollywood.

Dù trước đó nhiều người hoài nghi liệu với những thành công đến mức được mệnh danh “huyền thoại” trong sự nghiệp có thể đủ để khiến Lương Triều Vỹ muốn “về hưu với điện ảnh”, nhưng với Hollywood, dường như tất cả mới chỉ là khởi đầu.

7f767dda65103746c9a2d512612fd34a.jpg

Tags

Recommended posts for you