Về Sa Đéc: Vùng đất Người tình
Năm 1992, bộ phim “Người Tình” – “L’Amant” của đạo diễn người Pháp Jean-Jacques Annaud ra đời, gây xáo trộn giới phê bình lúc bấy giờ vì những cảnh nóng quá táo bạo, quá “thật”. Bộ phim nhận được một đề cử Oscar cho Cinematography (Kỹ thuật điện ảnh) và chiến thắng thêm giải điện ảnh danh giá của Pháp César cho phần soạn nhạc của Gabriel Yared.
Nhưng “Người Tình” không cần những giải thưởng để được tôn vinh, câu chuyện tình này in đậm trong trái tim người xem đến độ nhiều người quên mất hay chẳng để tâm đến cuốn sách đứng sau nó, và khi chiêm ngưỡng vùng đất Nam Bộ trong phim, những hình ảnh xứ sở Đông Dương xa xôi dĩ vãng đã ghim chặt trong tâm trí họ. Nhiều người giống tôi, muốn đi tìm bóng dáng “Người Tình”, và nhận một cú sốc nhẹ. Những Sài Gòn, Vĩnh Long, Đồng Tháp chẳng còn mấy dáng dấp những năm đầu thế kỉ 20 mà đạo diễn Jean-Jacques Annaud tạo ra nữa, trước mắt họ là những đô thị hiện
đại và những ngôi biệt thự bào mòn. Vậy tìm “Người Tình” ở đâu nếu không phải thành phố bé nhỏ mang tên Sa Đéc bên bờ Mê Kông kia, cũng là nơi thêu dệt câu chuyện tình của hai con người vô danh trong phim?
“Để tôi kể lại câu chuyện cho bạn nghe: Tôi 15 tuổi rưỡi. Trên chuyến phà giữa dòng Mê Kông."
Lời dẫn của người kể chuyện (diễn viên, đạo diễn Jeanne Moreau) mở đầu bộ phim có lẽ nên được xếp vào một trong những lời mở đầu câu chuyện tình kinh điển nhất của lịch sử phim ảnh, dựa theo cuối tiểu thuyết bán hồi kí của nữ văn sĩ nổi tiếng nước Pháp Marguerite Duras. Năm 1926, trên chuyến phà Mỹ Thuận ở miền Nam Việt Nam, cô gái trẻ người Pháp 15 tuổi - con của bà hiệu trưởng một trường tiểu học ở Sa Đéc (do nữ diễn viên người Anh Jane March thủ vai) gặp anh chàng người Hoa con một gia đình mại bản danh tiếng Sa Đéc (nam diễn viên Hồng Kông Tony Ka Fai Leung). Chàng phải lòng nàng. Nàng theo chàng vì sự giàu có và lối sống phong lưu. Câu chuyện tình ái vừa không môn đăng hộ đối, vừa quá xa những quy phạm bị cấm đoán và kết thúc như nó vốn phải thế.
Đó là câu chuyện tình buồn. Rất buồn. Nhất là nó lại diễn ra ở một xứ sở nhiệt đới lắm ưu tư như Đông Dương. Nhất là giữa một thời cuộc rối rắm của thuộc địa, của nghèo đói, của những con người tha hương cùng sống ở mảnh đất xa lạ. Không rõ Duras có cần phải chờ đợi cuộc điện thoại sau bao thập kỷ từ người tình của bà để muốn đặt bút viết về nơi chốn bà đã muốn giấu kín hay không. Duras cũng chưa bao giờ thừa nhận đây là câu chuyện của bà. Đó là lý do những nhân vật trong sách và trong phim đều không có tên, những cái tên là không cần thiết.
Năm 1984 Duras mới viết “Người Tình” và về Sa Đéc, mà tôi ngờ rằng với lý do cũng giống như Italo Calvino khi viết về Venice trong cuốn “Invisible City”: “Những hình ảnh của quá khứ, một khi chúng hiển hiện qua ngôn từ, sẽ bị xóa sạch. Có thể tôi lo sợ mình sẽ mất Venice mãi nếu nói về nó. Hoặc, cũng có thể, khi nói về những thành phố khác, là tôi đã mất chúng rồi, từng chút một.”
Nhưng đạo diễn Jean-Jacques Annaud có công cụ khác: màn ảnh. Với những khung cảnh ông ghi lại chỉ 8 năm sau đó, Sa Đéc và những vùng đất đưa đẩy câu chuyện của “Người Tình” sẽ không thể mất đi. Dòng sông đục ngầu phù sa có những nhánh bèo trôi, bàn tay run lẩy bẩy của chàng trai người Hoa khi rút ra điếu thuốc hút và bắt chuyện cô gái, đôi môi luôn được tô son rực đỏ trên khuôn mặt nhỏ bé rám nắng… Khi nghĩ đến “Người Tình”, tôi nhớ đến bóng hình và cử chỉ, một phần bởi những âm thanh trao đổi cũng được giới hạn đến cô đọng trong phim, một phần khác vì một chuyện tình ám ảnh đôi khi chẳng cần mấy lời nói nếu có thể được thay thế bằng rung
cảm và dục cảm.
"Thỉnh thoảng tôi trở về căn nhà của mình ở Sa Đéc."
Căn nhà của cô ở Sa Đéc là một trong những biệt thự Pháp cổ xây dựng trong thời kì khai thác thuộc địa ở đồng bằng sông Cửu Long, giờ vẫn còn. Ít ai biết hóa ra bà văn sĩ danh tiếng ấy từng dành những năm tháng tuổi thơ ở đây, từng nhảy múa trên nền gạch ướt khi bà mẹ nổi hứng chơi bản nhạc vui trên cây đàn dương cầm cũ kỹ, từng đau khổ triền miên vì xung đột với người anh trai trác táng.
Một ngôi nhà cổ danh tiếng nữa, cô gái trẻ thậm chí chưa một lần bước chân vào, nơi cô đặt tên là “tòa lâu đài màu xanh”. Tòa lâu đài trong con mắt cô gái trẻ thực ra không lớn như vậy, nhưng ở thời đó, nó đủ mặc định sự giàu có. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1895 giữa khu thị tứ náo nhiệt ven sông, kiến trúc pha trộn của ba phong cách kiến trúc Pháp, Việt, Hoa. Biết chủ nhân ngôi nhà, ắt biết danh phận người tình gốc Phúc Kiến của cô: Huỳnh Thủy Lê. Ngôi nhà sau cuốn phim “Người Tình” cũng được đặt tên là nhà cổ Huỳnh Thủy Lê, khách ghé thăm chẳng khó để tìm đến được “tòa lâu đài” giờ đìu hiu không còn nhiều nội thất. Nhà văn Sơn Nam sau quãng thời gian giúp việc cho hãng phim Renn-Productions để làm phim “Người Tình” đã tiết lộ trong những ghi chép rằng, ngôi nhà thực ra quá nhỏ để quay phim, đoàn phim đã phải mượn bối cảnh ở nhà cổ Bình Thủy (Cần Thơ) thay thế.
Hai ngôi nhà cổ từng gắn kết hai số phận, giờ chúng vẫn lặng lẽ ở phố thị trầm mặc Sa Đéc như những minh chứng mong manh của lịch sử một thành phố và của một cuộc tình. Nhưng Sa Đéc giữ được nét đẹp pha trộn văn hóa nhiều lớp lang như vậy bởi rất nhiều những căn nhà cổ khác rải rác trong thành phố. Dọc bờ sông trên con đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi trước cầu Sắt Quay là những căn nhà kiến trúc shophouse kết hợp giữa Pháp và Hoa có tuổi đời cả trăm năm. Ngắm nghía những con đường này, người ta không thể vội được, đi một bước là mảnh tường gạch bong tróc rêu phong, đi
bước tiếp theo là những mái vòm cong cong và những họa tiết gạch men đắt đỏ một thời đặt mua từ Pháp. Đi thêm chút nữa thì chết lặng trước hình dáng những nhánh rễ cây bám sâu vào khe tường nứt vỡ, cái cây vươn lên từ đứt gãy của thời gian, xanh xao, kiêu hãnh. Cái cây mọc trên mái nhà cao chót vót như một phản chiếu cho bao tầng kí ức thành phố này vẫn giữ gìn thế hệ này qua thế hệ khác.
Khi đi hết dãy nhà thì người ta chẳng còn cảm giác đang ở thời hiện đại nữa mà là một quá khứ xa xăm của xứ thuộc địa, nơi có những lớp thị dân từ Pháp, Hoa Kiều cho đến người Việt cư trú. Biểu hiện rõ rệt nhất của những đan xen văn hóa là dấu ấn nguyên vẹn của chùa chiền, nhà thờ Thiên chúa và nhà thờ Cao Đài, hầu hết được xây dựng bên sông. Hai ngôi chùa của người Phúc Kiến là Ông Kiến An Cung và chùa Bà nghe nói khi xưa được gia đình giàu có của Huỳnh Thủy Lê góp tiền chăm sóc, giờ kiêu hãnh giữa những góc đường trong khu phố cổ, nổi bật hẳn bởi nước sơn đỏ vàng. Đi xa hơn nữa, về phía bến phà Sa Đéc, lẩn khuất trong những rừng cây xanh mướt nhờ cả thế kỷ phù sa bồi tụ, là những căn biệt thự Pháp cổ đặc trưng bởi nước sơn vàng nhạt màu, những dãy cửa sổ cao để gió sông tiện đường xua cái nắng nóng nhiệt đới.
Không rõ Sa Đéc những năm 1926 có tấp nập hơn không, còn bây giờ thì Sa Đéc đang chậm. Người Sa Đéc không thích vội, họ đi thong dong trên những chiếc xe đạp, họ ngồi nép mình bên quầy thuốc lá, họ giữ những biển hiệu viết tay từ thế kỉ trước thay vì mấy tấm bảng màu neon lấp lánh, họ ăn hủ tiếu chậm, họ bán buôn thủng thẳng… Đúng là không gian đô thị thế nào, nhịp sống ở đó cũng sẽ tương quan như vậy.
"Tôi nhìn dòng sông... Dòng Cửu Long và những nhánh của nó."
Rất kỳ lạ, Sa Đéc thực ra chưa bao giờ là vùng đất của đôi trai gái lúc yêu đương, nhưng đó lại là vùng của hiện tại và kí ức khuấy động chập chờn trong tâm trí đa cảm của cô gái trẻ. Đó cũng là nơi gieo mầm hạt giống suy nghiệm trước tuổi và sau này là văn chương. Chính là bởi dòng sông. Dòng Cửu Long và những nhánh của nó. Dòng sông là khởi đầu của mối tình, trên chuyến phà nơi cô gái trẻ đứng trễ nải trong chiếc váy nâu đất ngoại cỡ, cái mũ rộng vành của bố cô, đôi giày cũ của mẹ cô, cái thắt lưng cũng không phải của cô nốt. Cô gái lạc lõng trên chuyến phà chở tất cả con người ở xứ thuộc địa, viên chức cũng chỉ như nông dân, người Pháp cũng như người Việt, người giàu cũng như người nghèo.
Nhưng chính trên chuyến phà, chàng trai người Hoa ngồi trong xe hơi sang trọng đã để ý đến cô, chàng xuống xe bước đến bắt chuyện. Dòng sông bao quanh hai người tình như vậy, dòng nước chảy xiết đưa họ rời khỏi một Sa Đéc tỉnh lỵ đơn giản để đến với Sài Gòn cho những lạc thú và khổ đau về sau. Dòng sông rộng lớn khiến họ có
thêm thời gian phá bỏ những ngại ngần sống sượng, phá bỏ cả cái ranh giới địa vị, thời thế và tuổi tác vạch ra giữa họ.
Trước người tình, cô gái trẻ đã mê mẩn dòng sông. Những cảnh phim đầu tiên mở ra viễn cảnh buồn rầu của một gia đình Pháp viên chức nghèo, sự lãnh đạm của người mẹ và sự quái gở trái tính của mỗi đứa con bà khiến bờ sông trong đêm trở thành nơi lẩn trốn của cô gái trẻ. Cô nhìn dòng sông trong màn đêm, thỉnh thoảng một vầng sáng của chiếc thuyền đi qua khiến mặt nước lấp lánh. Sau khi gặp người tình, dòng sông trở thành một điểm nhìn buồn. Khi người tình Trung Hoa của cô bị ép lấy vợ, cô gái dắt xe đạp đứng cùng đám đông để nhìn về đám cưới của gia đình giàu có người Hoa nơi có chú rể nọ u ám não nề rước cô dâu từ thuyền lên bến. Vậy là, dòng Cửu Long ấy vừa là nơi khởi tạo một mối tình trái khoáy vụng trộm, vừa là nơi đã cắt đứt nó.
Nên những ngày ở Sa Đéc, tôi không thể không ngồi cạnh dòng sông của “Người Tình”. Những dòng chảy như thể chẳng bao giờ thay đổi ấy lại ẩn chứa quá nhiều tầng kí ức, của Duras, của cô gái trẻ, của chàng trai Trung Hoa và của cuộc tình giữa họ. Người Sa Đéc thời nay hoặc sống ngay trên những dòng chảy, hoặc chia sẻ thời gian giữa sông nước và thị thành với những ghe thuyền của họ đỗ ở kênh Sa Đéc. Vỉa hè bên bờ sông Sa Đéc trở thành nơi quần tụ của người Sa Đéc cả trẻ cả già mỗi khi hoàng hôn buông xuống. Tôi nghĩ đó là một thứ ma lực sông nước mà chỉ người đồng bằng sông Cửu Long mới có thể cắt nghĩa.
Mỗi thời điểm trong ngày, dòng sông mang một sắc thái khác nhau. Bận rộn bán buôn những tàu hàng hóa, hoa quả xuôi đến Cần Thơ và Châu Đốc từ sáng sớm tinh mơ; thong dong nhịp nhàng và chỉ khuấy động rất khẽ trong ngày khi đôi lúc có tàu thuyền đi qua; rồi câm lặng lấp lánh mỗi đêm: “Thỉnh thoảng mẹ tôi vẫn nói với tôi rằng trong suốt cuộc đời, tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy lại những dòng sông đẹp đẽ, lớn rộng và hoang dã như những dòng sông này nữa, dòng Cửu Long và những nhánh của nó…
Tôi mê mẩn dòng sông bởi bề rộng và chiều dài của nó, dù tất cả những gì tôi có thể thấy chỉ là một nhánh của sông Mê Kông. Tôi nghĩ về tất thảy những gì đã diễn ra trên dòng sông, bao cuộc đời, bao chuyến phiêu bạt, bao bất trắc và bao sinh tồn, bao sung sướng khổ đau, bao mảnh tình nảy nở và tàn cháy. Chúng hòa quyện vào
những dòng chảy, chúng bồi tụ cho vùng đồng bằng trước hết, rồi rốt cuộc cũng sẽ chảy ra đại dương mênh mông.
Đó sẽ là đại dương nơi diễn ra cảnh cuối của cuốn phim “Người Tình”. Cơn mưa mù khói ôm lấy cô gái trẻ trên chuyến tàu đi xa, còn người tình ngồi trong ô tô. Câm lặng cho đến khi chiếc tàu khuất vào hư vô. Câm lặng cho đến khi bản Waltz Op.69 số 2 của Chopin được ai đó chơi.
Còn cô gái trẻ, cô bật khóc.
Words: Vân Anh
Illustration: Nguyễn Ngọc Liêm
(Đề mục là lời thoại từ phim Người tình của đạo diễn Jean-Jacques Annaud (1992)