The Art of Copying: Nghệ thuật chiếm đoạt hình ảnh và một số vấn đề liên quan
Chiếm đoạt hình ảnh là một phương thức biểu hiện phổ biến hiện nay, có thể được hiểu là người nghệ sĩ sử dụng các hình ảnh đã tồn tại trước đó như ảnh in trên tạp chí, tác phẩm của hoạ sĩ khác, hoặc những vật thể đã tồn tại sẵn nhằm truyền đi thông điệp của riêng mình.
Từ đó có những câu hỏi được đặt ra: Giới hạn của chiếm đoạt hình ảnh là gì? Việc bắt chước (imitate), lấy cảm hứng, sao chép (plagiarism) trong bối cảnh nghệ thuật đương đại là gì?
I. Các khái niệm và lịch sử của các vấn đề liên quan đến thuật chiếm đoạt
Khi bắt chước là sáng tạo
Bắt chước (Imitate) là hành động làm lại, bắt chước một cách chặt chẽ tác phẩm của các tác giả đi trước. Bắt chước là học thuyết sáng tạo nghệ thuật lần đầu tiên được đưa ra bởi Halicarnasssus vào thế kỉ đầu tiên trước công nguyên. Nhà triết học Hy Lạp Plato coi sự bắt chước là một nguyên tắc chung của nghệ thuật, vì ông cho rằng nghệ thuật tự nó đã là sự bắt chước của cuộc sống. Lý thuyết này đã được phổ biến và chấp nhận trong thời phục hưng và cổ điển. Vào thời kì phục hưng, sự bắt chước được coi là một phương tiện để đạt được phong cách cá nhân. Bên cạnh đó, lịch sử của in ấn cũng cho thấy sự thịnh hành của phương pháp bắt chước trong giai đoạn này vì tính thương mại, mọi người đều muốn sở hữu các tác phẩm của nghệ sĩ.
Sao chép là một phần cơ bản của quá trình học tập sáng tạo và là cách nghiên cứu, mở rộng kiến thức với sinh viên các trường nghệ thuật và thiết kế trên thế giới: sinh viên học vẽ minh hoạ có thể bắt chước các tác phẩm nổi tiếng, phong cách của các danh hoạ để rèn luyện kĩ năng và thao tác vẽ của mình. Hay sinh viên thời trang làm lại những chiếc đầm, váy của các nhà mốt trước đó để tìm hiểu về kĩ thuật, kiểu dáng và rèn luyện khả năng dựng mẫu. Việc bắt chước thông qua sao chép giúp người học tiến bộ hơn được chứng minh trong nghiên cứu của Takeshi Okada và Kentaro Ishibashi với mục đích điều tra xem việc bắt chước các tác phẩm có cải thiện khả năng sáng tạo của người mới học vẽ hay không. Theo kết quả của nghiên cứu, nhóm học sinh dành nhiều thời gian cho việc thực hành sao chép sẽ nhanh tiến bộ hơn nhóm ít sao chép, bắt chước.
Đạo văn (plagiarism) thể hiện một hành động chiếm đoạt bất hợp pháp, theo đó một số cá nhân cố ý và tuyên bố công khai các ý tưởng, hoặc thể hiện sự sáng tạo là của mình trên tác phẩm của người khác (dưới dạng bản sao).
Ngày nay sao chép, bắt chước mang ý nghĩa tích cực là phương pháp học tập rèn luyện để trải nghiệm các phương pháp, giúp chúng ta tìm ra được những sở thích, sở trường của bản thân để trải nghiệm và khám phá các quy trình sáng tạo.
Sáng tạo được truyền cảm hứng từ người khác
Con người có được một lượng kiến thức khổng lồ về các sự kiện mà họ không thể trực tiếp trải nghiệm qua quá trình học tập xã hội. Bắt chước có thể là trung tâm của các quá trình như vậy. Mọi người bắt chước hành vi của người khác không chỉ ở bề ngoài mà còn ở mức độ xử lý nhận thức sâu hơn. Khi làm theo hành vi của người khác, chúng ta suy ra mục tiêu của họ và điều chỉnh hành vi của chính họ dựa trên những mục tiêu được suy luận đó. Vì thế, bắt chước là một quá trình tượng trưng theo nghĩa là chúng ta không chỉ đơn thuần mô phỏng hành động mà còn xây dựng các mục tiêu và đôi khi là các quan điểm mới.
Lịch sử nghệ thuật cho thấy rằng các nghệ sĩ thông qua việc tích cực tương tác với môi trường xung quanh, đặc biệt là việc xem các tác phẩm nghệ thuật của người khác, thường lấy cảm hứng từ đó để tạo ra tác phẩm của riêng mình.
Các tác giả Takagi, Kawase, Yokocho, Oskada suy đoán rằng Picasso bắt đầu áp dụng một góc nhìn mới cho các bức tranh của ông sau khi bị ảnh hưởng bởi các nghệ sĩ khác. Có ý kiến cho rằng sự thay đổi quan điểm này là điểm khởi đầu cho sự đồng sáng tạo Chủ nghĩa Lập thể của Picasso.
Tương tự, Homburg (1996) gợi ý rằng nhiều phong cách hội họa mới, và thậm chí có thể là toàn bộ các phong trào trong nghệ thuật hiện đại, đã được truyền cảm hứng thông qua việc bắt chước. Art Deco, Art Nouveau và một số trào lưu nghệ thuật đầu thế kỉ XX mang ảnh hưởng của chủ nghĩa chiết trung, là sự cộng hưởng của các nền văn hóa phương Đông, phương Tây cùng với các sự kiện chính trị xã hội tại thời điểm bấy giờ đã tạo nên các nét đặc trưng riêng biệt. Nghệ thuật siêu thực bị ảnh hưởng bởi Dada và những công bố khoa học tại thời điểm thập niên 20, 30 ở Châu Âu. Các nghệ sĩ dần dần tạo ra tác phẩm mới không chỉ bằng cách vay mượn ý tưởng từ người khác mà còn từ tác phẩm trước đó của chính họ.
Tóm lại, khi mọi người bắt chước công việc của người khác, họ cố gắng suy ra mục đích hoặc mục tiêu của nó, và giải thích điều này trong khung nhận thức của riêng mình. Tại thời điểm này trong quá trình sáng tạo, ảnh hưởng của khuôn khổ trở nên yếu đi (tức là quá trình nới lỏng ràng buộc diễn ra). Khi cố gắng hiểu ý định của nghệ sĩ bằng cách so sánh nó với ý định của cá nhân, việc này buộc họ phải xem xét lại khuôn khổ của chính mình và góp phần xây dựng một khuôn khổ mới (góc nhìn mới).
Sáng tạo bằng chiếm đoạt hình ảnh
Appropriate trong từ điển Oxford là một động từ mang nghĩa lấy một cái gì đó để sử dụng cho riêng mình mà không được cho phép bởi chủ sở hữu, còn tính từ có nghĩa là sự phù hợp hay thích hợp về hoàn cảnh. Nghệ thuật chiếm đoạt theo William Landes là hiện tượng mượn các hình ảnh từ nghệ thuật đại chúng, quảng cáo, phương tiện truyền thông, các nghệ sĩ khác và kết hợp chúng vào các tác phẩm nghệ thuật mới. Thông thường kĩ năng và kĩ thuật của nghệ sĩ không quan trọng bằng khả năng đưa những khái niệm của họ vào hình ảnh. Theo Patricia King, người nghệ sĩ kết hợp tác phẩm thích hợp vào hình thức biểu đạt riêng biệt. Sản phẩm thu được không phải là một bản sao đơn thuần mà là một tác phẩm vi phạm, bị cấm nhưng là tác phẩm mang một cách diễn đạt hoàn toàn mới mà luật pháp cần bảo vệ, cho thấy việc bảo đảm tính nguyên bản của tác phẩm vô cùng quan trọng trong nghệ thuật chiếm đoạt.
Qua các định nghĩa ta thấy nghệ thuật chiếm đoạt coi trọng ý nghĩa của hành động tạo ra nghệ thuật, đồng thời cũng thấy được tầm quan trọng của việc giữ lại nguyên bản của tác phẩm. Điều này là cơ sở để lựa phân tích các ví dụ nhằm tìm hiểu các lĩnh vực liên quan đến bản quyền trong những tác phẩm chiếm đoạt.
II. Một số tác phẩm tiêu biểu trong nghệ thuật chiếm đoạt
Bài viết sử dụng một số tác phẩm của thế kỉ XX, XXI. Tiêu chí chọn tác phẩm thể hiện các phong cách tiêu biểu cho từng giai đoạn nghệ thuật và ưu tiên chọn những tác phẩm có liên quan đến việc tìm hiểu quyền tác giả để phục vụ mục tiêu nghiên cứu.
Năm 1919, Marcel Duchamp đã công bố tác phẩm LHOOQ là hình tấm bưu thiếp nàng Mona Lisa được vẽ thêm bộ ria mép mỏng và chòm râu dê trên khuôn mặt biểu tượng của vẻ đẹp thời kì Phục Hưng. Dòng chữ ám chỉ đến sự nóng bỏng của Mona Lisa như một lời thách thức với nghệ thuật lúc bấy giờ, chống lại phương thức sáng tác của nghệ thuật truyền thống. Tác phẩm này mở đầu cho trào lưu nghệ thuật “readymade”, sử dụng những vật dụng, hình ảnh có sẵn và biến đổi chúng thành nghệ thuật, đôi khi chỉ cần đặt lại tên, đưa vào phòng trưng bày tạo cho người thưởng lãm có cái nhìn mới mẻ, nguồn tư tưởng khác lạ về một vật từng hiện hữu, cho dù là những thứ bình thường quen thuộc nhất. Trong trường hợp này, vật thể gốc là tấm bưu thiếp rẻ tiền in hàng loạt.
Marcel Duchamp và nhóm những nghệ sĩ theo trường phái Dada đã mở đầu cho những tác phẩm chiếm đoạt sau này ở thế kỉ XX và cách thể hiện nghệ thuật này đã được phổ biến rộng rãi dưới nhiều hình thức khác nhau ở các lĩnh vực nghệ thuật thị giác. Marcel cũng là người mang chiếc bồn tiểu mua tại cửa hàng bán thiết bị J.L.Mott Iron Work, kí tên giả R.Mutt, đặt tên tác phẩm là Fountain rồi mang đến buổi triển lãm do Hội Nghệ Sĩ Độc Lập tổ chức tại New York. Tác phẩm bị từ chối và phản đối bởi hội đồng nghệ thuật nhưng lại là nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ theo phong cách “readymade” sau này.
Thuật chiếm đoạt lặp đi lặp lại và có mặt ở chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa siêu thực của những năm 30, 40, hay rõ ràng nhất ở nghệ thuật đại chúng (Pop Art) của những năm 1950. Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, các nghệ sĩ siêu thực như Max Ernst, Hannah Höch, đã chiếm đoạt hình ảnh từ tạp chí và đồ vật để tạo ra những hình ảnh kì quái được cho là mô tả lại tiềm thức của con người (photomontage). Salvador Dali và một số nghệ sĩ siêu thực cũng làm các sản phẩm điêu khắc bằng phương thức chiếm đoạt hình ảnh từ những đồ vật có sẵn.
Sherrie Levine là một nhiếp ảnh gia, hoạ sĩ, nghệ sĩ ý niệm trong thập niên 70, có sự nghiệp sáng tác nổi bật với các triển lãm chiếm đoạt hình ảnh. Phần lớn tác phẩm của cô đều trích xuất rõ ràng từ các nghệ sĩ hiện đại rõ nhận biết như: Marcel Duchamp, Walker Evans, Van Gogh,…
“After Walker Evans” chụp lại những bức ảnh của Walker Evans và không cần dùng qua bất cứ thao tác chỉnh sửa nào, cô trưng bày và để tên như tác phẩm của mình. Qua đó, cô muốn đặt câu hỏi cho người xem: Khi người khác chụp lại tác phẩm của Walker thì tác phẩm này thuộc về ai? Cô chiếm đoạt các tác phẩm của nghệ sĩ nam rồi cố tình phóng tác một cách nữ tính hoá một số tác phẩm nhằm đề cập đến sự chiếm ưu thế của nam giới trong các sách giáo khoa về lịch sử nghệ thuật.
Andy Warhol, nghệ sĩ Pop Art thực hành thuật chiếm đoạt từ những hình ảnh quen thuộc của văn hóa tiêu dùng và nổi tiếng với các tác phẩm liên quan đến những ngôi sao, tin tức lá cải và truyện tranh. Tác phẩm Campbell’s Soup Can thể hiện hình ảnh món đồ hộp mà ông chia sẻ “tôi từng uống nó, tôi đã từng ăn trưa giống nhau mỗi ngày trong suốt 20 năm và điều này lặp đi lặp lại”. Tác phẩm này được trưng bày lần đầu tiên vào năm 1962, ông dùng các tấm bạt vẽ hình 32 hộp súp (lúc bấy giờ, hãng Campbell bán đúng 32 loại súp khác nhau). Warhol đã bắt chước sự lặp lại và đồng nhất của quảng cáo bằng cách tái tạo cẩn thận những hình ảnh trên các tấm toan riêng lẻ để thể hiện nền văn hóa ẩm thực nhàm chán thời điểm đó.
Thông qua các trường hợp nêu trên ta có thể kết luận các tiêu chí sau đây sẽ định nghĩa một tác phẩm chiếm đoạt:
- Thay thế (transfomation): Nghệ sĩ chiếm đoạt phải loại bỏ tác phẩm gốc ra khỏi bối cảnh ban đầu, thay thế một bối cảnh mới cho tác phẩm, định hướng người xem theo bối cảnh mới. Bên cạnh đó tác phẩm có thể được thêm vào những yếu tố mới với mục đích thay đổi ý nghĩa hoặc tạo thông điệp mới (Hình thức nghệ thuật)
- Ý tưởng nghệ thuật được quyết định bởi phản ứng của người xem: Nếu người xem nhận thấy rằng tác phẩm thứ hai biểu thị điều gì đó khác với tác phẩm đầu tiên, thì người nghệ sĩ đã thành công trong việc chuyển đổi ý nghĩa của tác phẩm gốc thành một điều gì đó mới mẻ. Với những tác phẩm chiếm đoạt, đầu vào là khả năng nghệ sĩ nhìn thấy hình ảnh có sẵn theo một hướng khác mà người quan sát bình thường không thể thấy được, cho nên đầu ra của tác phẩm không phải ở chỗ tác phẩm đó trông như thế nào mà là sự bàn luận của khán giả theo định hướng mà nghệ sĩ mong muốn.
Luật bản quyền đã tồn tại kể từ khi chúng ta có thể dễ dàng tạo ra các bản sao của các tác phẩm viết tay (thời phục hưng), bản in của các tác phẩm tranh. Với sự phát triển của nghệ thuật qua các thời đại, luật bản quyền cũng không ngừng thay đổi và mở rộng và đều có cùng một mục tiêu chính đó là bảo vệ quyền lợi của nghệ sĩ. Một trong những điều cơ bản và quan trọng là: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.” (trích khoản 1 điều 6 văn bản hợp nhất Luật sở hữu trí tuệ năm 2013), điều này có nghĩa tác phẩm sẽ thuộc về tác giả khi nó vừa xuất hiện mà không cần được cho phép hay qua bất cứ thủ tục nào.
Nghệ thuật chiếm đoạt đặt ra câu hỏi về tính độc đáo, tính xác thực, quyền tác giả và vượt ra ngoài việc sử dụng nghệ thuật như một công cụ để thể hiện hình ảnh và tường thuật mà thay vào đó, nó hướng nội, đặt câu hỏi về bản chất của chính nghệ thuật.
Chính sự bắt chước, sử dụng lại mang thông điệp ý nghĩa hoàn toàn mới sẽ kích thích người xem tìm về nguồn gốc của tác phẩm nguyên thủy. Hầu hết các tác phẩm ở nghệ thuật này sẽ sử dụng những hình ảnh mang tính “đại chúng”, các tác phẩm gốc đều là những tác phẩm kinh điển, nổi tiếng hoặc hình ảnh của những thương hiệu lớn, và đây cũng là lý do các nghệ sĩ chiếm đoạt hình ảnh phải đối mặt với các kiện tụng liên quan đến bản quyền.
III. Vai trò của quyền tác giả trong nghệ thuật chiếm đoạt hình ảnh
Ta cùng xem một ví dụ là case study quen thuộc trong các nghiên cứu về luật bản quyền. Tháng 10/2006, Jeff Koons đã bảo vệ thành công một tác phẩm bằng cách tuyên bố “sử dụng hợp pháp” trong vụ kiện với Blanch. Tiến trình của vụ việc như sau: Andrea Blanch chụp sản phẩm Silk Sandal của Gucci cho tạp chí Allure và được xuất bản trong số tháng 8/2000 để minh họa cho một bài báo về trang điểm ánh kim. Koons dùng hình ảnh đôi bàn chân trên tạp chí đưa vào trong tranh. Bức tranh tên Niagara này gồm hình các đôi chân của phụ nữ đặt cạnh bánh nướng và bánh ngọt.
Tòa án kết luận tấm ảnh trên tạp chí không phải là nguyên bản và nó không thuộc sở hữu của Blanch (vì Koons đã mua nó), tấm ảnh được Koons chiếm đoạt nhưng được xem là nguyên liệu thô và đã bị biến đổi khi đặt trong bối cảnh hoàn toàn khác. Bên cạnh đó, tòa cũng nhận thấy rằng số lượng và tính chất của tác phẩm chiếm đoạt này không ảnh hưởng đến tác phẩm gốc.
Văn hoá đại chúng bùng nổ ở Mỹ và lan rộng trên toàn thế giới, kéo theo những hiện tượng sử dụng các hình ảnh có sẵn để tạo thành những ý nghĩa và mục đích khác nhau. Để ủng hộ, đồng ý với các hình thức nghệ thuật phái sinh, thuật chiếm đoạt trong nghệ thuật, đạo luật bản quyền 1976 tại Hoa Kì đưa ra bảo vệ chống lại vi phạm quyền khi nghệ sĩ có thể chứng minh rằng việc sử dụng tác phẩm của họ cơ bản là công bằng. Đạo luật đã đưa ra bốn yếu tố để xem xét một hoạt động sử dụng lại cụ thể có được coi là vi phạm bản quyền hay không;
- Mục đích và đặc điểm sử dụng (thương mại hoặc giáo dục, chuyển đổi hình thức hoặc tái sản xuất, chính trị).
- Bản chất của tác phẩm có bản quyền (hư cấu hay thực tế, mức độ sáng tạo).
- Số lượng và tính chất tác phẩm gốc được sử dụng.
- Tác dụng của việc sử dụng đối với thị trường (hoặc thị trường tiềm năng) đối với tác phẩm gốc.
Các phân tích của Rachel Isabelle (2010) cho thấy với sự đa dạng, nhiều biến đổi về chất liệu, hình thức, không gian, thời gian của các tác phẩm, mỗi trường hợp để xác định quyền sử dụng còn đòi hỏi vào sự phân tích, thuyết minh dự án. Tác giả cũng nhấn mạnh thông qua việc phân tích các vụ kiện tụng trong lĩnh vực này: tất cả các nghệ thuật đều phái sinh từ các phác phẩm, sự kiện trong cuộc sống cho nên quyền sử dụng ra đời nhằm bảo vệ bản quyền của tác giả, đồng thời cho phép sử dụng để phát triển những ý tưởng, phương pháp thực hành nghệ thuật mới.
Quyền sử dụng, quyền tác giả cũng đã giúp chúng ta phần nào giải thích các hình thức của chiếm đoạt nghệ thuật. Quyền sử dụng cũng giúp phân biệt tác phẩm chiếm đoạt với các tác phẩm sao chép không mục đích.
- Sao chép tác phẩm có thể được hiểu là sử dụng lại, chế biến tác phẩm gốc mà không có bất cứ mục đích cụ thể nào. Ranh giới giữa sao chép và lấy cảm hứng là rất mong manh. Lấy cảm hứng có nét tương đồng với thuật chiếm đoạt là cần xác định được ý nghĩa của việc lấy cảm hứng, từ đó đưa các yếu tố để tạo một tác phẩm của riêng mình.
- Sao chép tác phẩm chiếm đoạt hình ảnh là hình thức khó xác định nhưng vẫn có thể dựa vào việc phân định các ý tưởng nghệ thuật thông qua việc lặp lại ý tưởng nghệ thuật.
Kết luận
Sử dụng sản phẩm sáng tạo của người khác là một phần của nền văn hóa mới, nền văn hóa này nhất thiết phải được xây dựng trên những thứ hiện có trong tất cả mọi lĩnh vực: văn hóa, chính trị, khoa học, nghệ thuật. Người làm nghệ thuật có thể học tập phương pháp sáng tạo, sử dụng tác phẩm có sẵn để đột phá tạo nên những sáng tạo không giới hạn.
Nghệ thuật chiếm đoạt, một trong những loại hình phổ biến trong nghệ thuật đương đại đã cho chúng ta thấy về việc xác định một tác phẩm ngày nay không còn dựa vào những yếu tố tạo hình đơn thuần mà thay vào đó cần xem xét:
- Phương thức thể hiện bao hàm một ý nghĩa rộng lớn hơn là sự xuất hiện của tác phẩm trong khoảng không gian và thời gian nhất định. Nghệ thuật chiếm đoạt chấp nhận sự sao chép nguyên bản phương thức thể hiện hoặc điều chỉnh và được luật pháp trên thế giới bảo hộ thông qua quyền sử dụng.
- Ý tưởng nghệ thuật là mục tiêu, ý nghĩa để tác phẩm xuất hiện, được thực hiện bởi kế hoạch của nghệ sĩ nhưng người xem sẽ quyết định kế hoạch đó, tác phẩm đó thành công hay là đồ sao chép, đạo nhái.
Chúng ta đang sống trong một thế giới tràn ngập hình ảnh và thông tin, công nghệ thông qua internet đã giúp ta tiếp cận mau chóng với những điều mới mẻ nhất đang diễn ra. Các nghệ sĩ, nhà thiết kế, sinh viên nghệ thuật chắc hẳn đã quen thuộc với các công cụ tìm kiếm hình ảnh như Pinterest, Google. Với một hình ảnh có sẵn, bằng công cụ tìm kiếm, chúng ta dễ dàng tìm ra các hình ảnh tương tự để truyền cảm hứng, học tập thậm chí là bắt chước.
Sinh viên Việt Nam và quốc tế đều được khuyến khích sử dụng hình để nghiên cứu, minh họa cho các dự án nghệ thuật. Liệu sinh viên và nghệ sĩ trẻ Việt Nam có đang thực hành thuật chiếm đoạt? Hay đang bắt chước ngày càng nhanh chóng và tinh vi hơn để tạo thành những thế hệ nghệ sĩ, nhà thiết kế Pinterest? Nghiên cứu này mở ra những tìm tòi về phương pháp dạy, học, thực hành thuật chiếm đoạt để vẫn giữ được tính nguyên bản của mỗi cá nhân nghệ sĩ. Hãy là một khán giả, nghệ sĩ hiểu biết để đưa chiếm đoạt hình ảnh trở thành công cụ phục vụ không giới hạn của nghệ thuật đương đại
Bài: Nguyễn Vũ Cẩm Ly